Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2021

VANILLA SKY – KHI GIẤC MƠ LẤN ÁT THỰC TẠI

 

Penélope Cruz trong Vanilla sky

VANILLA SKY – KHI GIẤC MƠ LẤN ÁT THỰC TẠI

Warning: Bài viết có tiết lộ toàn bộ nội dung phim

Một số fact về Vanilla sky mà có thể bạn chưa biết:(tham khảo https://mimicnews.com/10-things-you-didnt-know-about-vanilla-sky-screenrant)

- Vanilla sky là bản remake tác phẩm Open your eyes ra mắt năm 1997 do Alejandro Amenábar đạo diễn và đồng biên kịch Mateo Gil

- Vai diễn của Penélope Cruz trong Open your eyes cũng được thể hiện lại bởi chính cô trong Vanilla sky

- Vanilla sky có sự tổng hòa giữa nhiều biểu tượng văn hóa trải dài qua nhiều thập niên: ảnh hưởng mạnh mẽ của Tứ quái The Beatles, John Lennon & Ono Yoko, Bob Dylan, hội họa của Claude Monet,...

- Có một cảnh quay được cho là đã tái hiện lại artwork của album The freewheelin' Bob Dylan của huyền thoại folk những năm 60 của thế kỷ trước - Bob Dylan, đó là khi đôi trẻ Cruise và Penélope sánh bước hạnh phúc trên con đường phủ tuyết trắng

-  Vanilla sky là tác phẩm thứ hai mà Tom Cruise và Cameron Diaz cùng góp mặt. Các tác phẩm về sau của họ: Minority report (2002), Knight and Day (2010)

-  Tom Cruise và Penélope Cruz đã có mối quan hệ lãng mạn sau khi phim đóng máy, lúc này Tom đã ly hôn người vợ thứ hai của mình, Nicole Kidman

 __________________

Tôi rất thích cái cách mà một số trang phim (chính thống hoặc không) dịch tựa đề của Vanilla sky. Khung trời ảo mộng. Chất liệu huyền ảo có vai trò lớn trong các cảnh lãng mạn, đồng thời cũng làm rất tốt vai trò đánh lạc hướng trong các tình huống tạo sự hồi hộp. Một mê trận của hiện thực và ảo mộng có thể khiến người xem rối trí nhưng lại là xương sống của cốt truyện.

Penélope Cruz không quá xa lạ với các tín đồ Hollywood trong thập niên 2000s, bởi lẽ nàng thơ xứ bò tót sở hữu nhan sắc vô cùng cuốn hút và diễn xuất nhập vai, nhất là các vai diễn nội tâm phức tạp. Chẳng quá khi nói rằng Sofia của Vanilla sky là vai diễn dành cho Penélope. Nếu như phía bên kia Cameron Diaz chứng tỏ mình là một nhân tình ngọt ngào, có phần liều lĩnh và hết mình vì yêu đương thì Penélope cũng không hề bị lép vế, cô như nàng thơ của mọi ánh nhìn, người mà khiến chúng ta - những khán giả của bộ phim ngay lập tức nhận ra được đây chính là người tạo ra khúc cua của định mệnh. Ngay từ những cảnh quay đầu tiên, cuộc gặp gỡ giữa Sofia và David đã dễ dàng tạo ra một bối cảnh êm đềm của ái tình, cho đến khi ảo mộng thế chân thực tại.

Một vai diễn đáng xem đến từ vị trí của Tom Cruise sau Eyes Wide Shut (1999) và Magnolia (1999). Tom đã tạo ra thế cân bằng hoàn hảo giữa phim nghệ thuật và phim giải trí. Có lẽ rất lâu nữa người ta vẫn sẽ còn nhắc đến phân cảnh khóc của Frank (người diễn thuyết về cách cưa đổ các cô nàng - thủ vai bởi Tom) bên giường bệnh của  người cha đã bỏ mặc anh từ ngày thơ ấu (Jason Robards đóng). Ở Vanilla sky, David Aames của Tom cũng bị bóc trần mọi lớp lang cảm xúc sâu kín của một kẻ có tất cả: từ tiền bạc, quyền lực, diện mạo, bóng hồng cho đến khi biến cố lớn xảy ra và cướp đi một phần cuộc sống của anh ta. Có lẽ thời lượng chúng ta nhìn thấy David qua lớp mặt nạ còn lớn hơn thời lượng mà khuôn mặt điển trai của anh được lên hình. Thế nhưng tâm lý phức tạp của một gã đại gia vật lộn với tiêu cực, uất ức và ảo giác cứ thế hiện lên, không hề bị lớp mặt nạ vô hồn che khuất.

 


Đã khéo léo phơi bày được góc khuất của xã hội kim tiền, khi mà người giàu cũng khóc, có thể nói rằng thông điệp mà Cameron Crowe muốn truyền tải đơn thuần là việc xóa tan ranh giới giữa người giàu và kẻ nghèo. Khi không có được hạnh phúc trong tâm hồn, giàu hay nghèo có quan trọng? Dường như đó chỉ là một thứ nhãn dán mà xã hội nhìn nhận con người. Không có thứ nhãn dán đó, dù giàu sang hay hèn kém, con người vẫn chỉ thuần túy khao khát tình yêu mà thôi.

Bằng cách sắp xếp các khung hình lộn xộn một cách có chủ ý, Vanilla sky bước đầu hack não người xem bằng cách bày ra một ma trận kết hợp thực tại và ảo giác. Rất đáng khen cho biên kịch khi bộ đôi này đã chọn lựa thể hiện một chủ đề không mới theo một cách rất mới lạ khi kết hợp hoàn hảo giữa thriller và romance comedy, không hề màu mè hay sa đà vào kể chuyện thừa thãi. Rất sớm thôi người ta sẽ quen với mạch phim chậm rãi, thông tin được hé lộ dần dần. Và rồi bất ngờ khi cú twist được tiết lộ và cuối phim, thế nhưng nếu như để ý một chút, có thể nhận ra các manh mối được cài vào trong hai tiếng đồng hồ, cơ hồ như những mẩu bánh mỳ vụn dẫn người ta đến với đích. Sự phi lý về dòng thời gian, các nhân vật, bối cảnh bị thay đổi liên tục. Trước khi xem cái kết, người ta có thể suy đoán rằng David đang trải qua một chuyến trip* đưa anh lên tận mây xanh thế nhưng đó là một trong số nhiều cách lý giải Vanilla sky (theo Cameron Crowe thì có đến 5 giả thiết mà người xem có thể dùng để lý giải phim). Cái kết đã gợi mở nhiều hơn một cách hiểu toàn bộ phim một cách nhất quán. Tuy nhiên, dễ hiểu và trọn vẹn nhất là cách mà người Technic support (Noah Taylor đóng) giải thích toàn bộ những gì mà David trải qua (vâng, chính xác là sau khi Sofia chia tay anh).

Giấc mơ là một điều huyền bí mà trải qua cả hàng nghìn năm người ta vẫn còn đang đi tìm câu trả lời, cho đến cuối thế kỷ 19, một bác sĩ tâm thần người Áo có tên Sigmund Freud đưa ra kết luận một cách đầy thách thức. Giấc mơ là tiếng gọi của tiềm thức, là câu trả lời cho những ẩn ức tính dục của con người bị đè nén bởi bản ngã. Cũng như David và những gì Life Extension mang đến cho anh, những khát khao thầm kín về việc khôi phục lại diện mạo trước kia, có được tình yêu với Sofia, để mọi thứ quay trở lại quỹ đạo ban đầu trước tai nạn là khởi thủy của mọi định hình để bước vào thế giới ảo mộng mang tên giấc mơ sáng suốt (lucid dream). Nếu như lưu ý đến những khung hình có Sofia xuất hiện, sẽ dễ hiểu khi thấy đa phần chúng có vẻ mờ ảo. Một phần đó là khi David đang ở trong lucid dream, cũng có thể một phần thực tại tươi đẹp ít ỏi mà đôi tình nhân có thể chia sẻ với nhau.

Một cách lý giải khác không hoàn toàn thuyết phục, tuy nhiên lại có phần hợp lý với nhiều chi tiết trong phim như sau. Bộ phim là một cú lừa và diễn ra trong tưởng tượng của một nhân vật nào đó. Từ cuộc đời hoàn hảo không tì vết của David, nhiều hơn một thực tại khi David bị thẩm vấn trong lớp mặt nạ, đêm cuối tại hộp đêm, trải nghiệm hạnh phúc cùng Sofia. Thêm một mẩu bánh mì vụn đánh rơi: ngày tháng đăng ký xe của David là 30/02/2001, một mốc thời gian không có thực.

Một điều cuối cùng mà Vanilla sky để lại trong tôi (ừm nhất định ngoài việc đây là một bản remake đáng xem) chính là việc con người có thể chọn cho mình cách để mơ mộng. Nhưng đừng quên rằng rồi sẽ đến lúc phải quay về với thực tại. Vanilla sky là tên ca khúc chủ đề trong phim được sáng tác và thể hiện bởi Paul McCartney, và đồng thời cũng gợi nhắc đến bức họa Seine at Argenteuil của Claude Monet. David dường như đã chọn khung trời ảo mộng trong bức tranh ấy làm bối cảnh để thực hiện lucid dream. Đây cũng là một ẩn dụ khéo léo về một thực tại tươi đẹp không còn nỗi đau hay mất mát.

 * trải nghiệm của một chuyến đi, thường dùng để mô tả trạng thái thần kinh gặp ảo giác của người sử dụng chất hướng thần (nấm hướng thần) hoặc các loại ma túy tổng hợp có chứa chất hướng thần

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

ONLY YESTERDAY (1991)

 


* Bài viết có spoil toàn bộ nội dung của phim

      Không hề đao to búa lớn, không là một quá trình trải qua một cuộc đấu tranh tìm lẽ phải, lật đổ sự thống trị của một ác nhân hay hướng đến một happy ending viên mãn, Only yesterday chỉ đơn giản là một sự hồi tưởng dội về trong tâm trí của một cô gái đã đi qua thời thơ ấu nhiều buồn vui lẫn lộn. Taeko, cô gái 27 tuổi, trưởng thành trong gia đình gia giáo tại Tokyo, đang làm nhân viên văn phòng. Taeko giữa những mệt mỏi của chốn đô thị, đã dùng mười ngày nghỉ phép để về thăm vùng quê Yamagata thanh bình, xứ sở của hoa rum - một loại hoa dùng để nhuộm vải và làm son thời bấy giờ. Chuyến đi kết nối những mảnh kí ức rời rạc năm mười tuổi của Taeko lại thành một bản thể sống động, định hình nên con người của cô ở thời điểm hiện tại.

    Việc đưa một tuổi thơ của người bình thường như Taeko lên phim, ắt hẳn sẽ có nhiều hoài nghi về tính giải trí mà phim mang lại. Có người coi phim ảnh như một công cụ để thoát khỏi thế giới hiện thực, để sống hàng trăm hàng nghìn cuộc đời khác nhau; nhưng cũng có người coi phim ảnh là đôi mắt nhìn thấu nhân gian, sẵn sàng đón nhận trải nghiệm hiện thực. Only yesterday đúng với vế sau của câu nói trên. Khắt khe mà nói, phim gây buồn ngủ tại một số trường đoạn thực tại, tuy nhiên lại dẫn dắt rất khéo trong những cảnh hồi tưởng quá khứ. Phim duy trì kết nối giữa thời thơ ấu và trưởng thành của Taeko thông qua ước mơ và khao khát chưa thể thực hiện của cô. Khi cô bé rất thích về quê ngoại trong kỉ nghỉ hè như chúng bạn thì thay vào đó, là chuyến đi Atami chóng vánh bởi cô đã ngất xỉu trước vẻ đẹp hiện đại của suối nước nóng. Thế nên khao khát trải nghiệm cuộc sống thôn quê luôn thường trực trong tâm tưởng của Taeko. Điều đó giải thích động cơ của chuyến đi về Yamagata, khi Taeko chuẩn bị quần áo tá điền để thu hoạch hoa rum trước bình minh, và khi cô hòa nhập nhanh chóng với đời sống thôn quê dung dị dù cho cô là người gốc thành phố. Người ta luôn có mong muốn hiện thực hóa những giấc mơ còn dang dở thời ấu thơ.

    Xen lẫn những kí ức dội về, Only yesterday giống như một bản tình ca của tuổi trẻ. Đôi khi ta nhận ra rằng, nếu tuổi thơ là nơi người ta có thể quay trở lại thì ắt hẳn sẽ chẳng ai nuối tiếc. Bởi không thể quay lại nên mới có hoài niệm. Có thể rất ngây ngô khi Taeko lớn kể về một Taeko bé. Kỉ niệm trong trí nhớ đi qua những lần tranh giành đồ đạc với chị gái, ba nghiêm khắc đánh đòn, suy nghĩ về tuổi dậy thì,… Những điều tưởng chừng chẳng có gì lưu luyến trong quá khứ đó, về sau này lại rất đáng nhớ.

    Lúc đó ước gì mình đã làm khác đi. Chỉ cần không cư xử như thế thì đã không xảy ra chuyện này chuyện kia. Không chỉ riêng Taeko mà mọi người trưởng thành đều có suy nghĩ như vậy. Có thể nhìn thấy Taeko bé trong mỗi con người chúng ta, những con người lần đầu làm người lớn, có những va vấp đầu tiên để định hình bản thân. Cũng có khi ngồi trên xe bus khi đi làm về, tôi nghĩ lại một kỉ niệm thời tiểu học, và để cho những kí ức khác chầm chậm len lỏi về. Cho dù ta đã thành người lớn mất rồi.

    Bên cạnh dòng hồi tưởng, Taeko hiện tại say mê tận hưởng cuộc sống thôn quê.

Sau khi thu hoạch hoa rum, hoa được đem nghiền tạo nên màu vàng đậm, người nông dân nặn thành nhúm nhỏ rồi phơi khô. Phải thu hoạch hoa trước khi mưa đến, và cũng phải bảo quản hoa rum sau khi phơi tại nơi khô ráo. Phần nước hoa rum sau khi nghiền có thể dùng để nhuộm quần áo. Các cô gái nơi đây thường mặc áo nhuộm từ hoa rum, điều đó khiến họ cảm thấy thật gần gũi với thiên nhiên.

    Chính sự giản dị của cuộc sống thôn quê đã hấp dẫn Taeko và giúp cô hiện thực hóa giấc mơ khi còn nhỏ. Bên cạnh sự gần gũi của thiên nhiên, anh chàng tá điền chất phác Toshio bầu bạn với Taeko và giúp cô chiêm nghiệm thế giới quan của người trưởng thành.

    Chuyến xe kí ức tiếp tục lăn bánh, đan cài những kỉ niệm trong trẻo và cũng đầy tiếc nuối của cô gái 10 tuổi năm xưa. Lần đầu hết mình vì vai diễn trong vở kịch của trường, cũng là lần cuối có cơ hội được đứng trên sân khấu lớn để trở thành diễn viên. Lần đầu nhận được lời tỏ tình hồn nhiên của một bạn nam khác lớp. Cũng là lần đầu biết mình bị ám ảnh về sự thất bại môn số học. Những kí ức tưởng chừng đã ngủ yên lại sống dậy, đôi khi nó vẫn tồn tại như một sự nhắc nhớ cho bản thân khi đã trưởng thành, đôi khi nó vụt qua để lại một thoáng bình yên nho nhỏ.

 

     Only yesterday mang đậm hơi thở thời đại và quan niệm trong văn hóa Nhật Bản về chuẩn mực của người phụ nữ. Khi còn là một cô bé, phải rèn giũa tác phong ngăn nắp. Khi lớn lên, không cần quá bận tâm đến sự nghiệp, hãy tìm một người đàn ông tốt, kết hôn, sinh con và trở thành nội trợ cho gia đình. Trong thời đại đó, một cô gái độc thân tuổi 27 như Taeko trở thành một hình ảnh không mấy tích cực trong con mắt những người xung quanh. Tuy nhiên, sự áp đặt trong quan niệm thời đại đó chỉ như một sự điểm xuyết trong thông điệp của Only yesterday. Hành trình trở về, nhìn thấu thế giới trẻ thơ qua con mắt người trưởng thành và chiêm nghiệm thế giới hậu tuổi thơ để tìm ý nghĩa cuộc sống mới chính là điều mà phim muốn truyền tải.

     Đến khi trở về thực tại sau khi hồi tưởng quá khứ, Taeko nhận ra rằng mình không thể nào sống như ngày hôm qua được nữa, có chăng đó chỉ còn là những kí ức dội về (おもひ ぽろぽろ) . Ai rồi cũng phải lớn lên, và đối diện với vấn đề của mình. Nếu như việc trở về vùng quê, ban đầu giống như một kỳ nghỉ thì về sau lại phơi bày một Taeko thiếu chính kiến, trốn tránh thực tại tù túng. Kí ức tuổi thơ và sự đồng cảm nơi Toshio đã khiến cô mở lòng và chọn cuộc sống mà cô muốn.

    Lớn lên là một điều ước của không ít cô cậu khi còn bé. Có thể thỏa thích mua đồ chơi, dán mắt vào ti vi mà không ai quản thúc, chẳng phải lo khi không làm bài tập về nhà, và cũng chẳng ai nhắc nhở ta phải đi ngủ sớm mỗi tối. Thế nhưng khi thành người lớn cả rồi, nhiều nỗi lo khác bủa vây lấy ta. Liệu sự hồn nhiên đó còn mãi, hay giống như một món quà được gói kín, đợi được lật mở từng lớp giấy?

Tôi chợt nhớ đến một câu hát của một chàng nhạc sĩ mà tôi rất thích

"Ngày nhỏ mình mong to lớn mau mau

Ta đâu có thấu lớn lên chẳng mấy vui đâu

Ta mong khôn lớn hai mươi năm đầu

Chẳng lớn khôn hơn về sau

Bỗng lúc ấy ta tìm thấy nhau"

 

P/s: Và có lẽ đây là màn tỏ tình kinh điển nhất của lứa tuổi U10 mà tôi từng biết.

"Cậu thích trời nắng hay trời mưa?"

"Trời râm"

"Tớ cũng vậy"

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020

SINGERS-COMPOSERS AND SOUNDTRACKS

   Nếu như các bạn theo dõi Hptnk25 trong thời gian dài, dễ nhận ra Soundtrack là mảng được chăm chút nhất. Thậm chí tôi còn đi lựa một hình ảnh nào đó trong phim để đưa vào bài đăng, à thực ra không phải tôi lười viết hay dịch lyrics mà âm nhạc luôn kết hợp với một hình ảnh/trường đoạn nào đó trong phim để làm tăng hiệu quả truyền tải cảm xúc mà đôi khi ngôn từ không thể thay thế được. Vậy cùng tôi điểm qua một số cái tên dễ nghe (một phần là OST trong phim) có thể phụ trợ cho bạn trong quá trình viết, làm việc hoặc thậm chí là ru ngủ.

1. BẬC THẦY SOUNDTRACK ALEXANDRE DESPLAT

Nhà soạn nhạc người Pháp này từng được đề cử Oscar hạng mục Âm nhạc xuất sắc 11 lần và có 2 chiến thắng với The Grand Budapest hotel (2014) và The shape of water (2017).

Tôi biết đến Alexandre Desplat trong một hoàn cảnh không giống mọi người. Nhiều năm trước tôi từng là fan của loạt phim Twilight saga và có ấn tượng tốt với âm nhạc của Carter Burwell ở phần I. Trong phần II - New moon, âm nhạc của Alexandre Desplat đã thay máu cho câu chuyện tình ủy mị này, khiến mọi thước phim đều phảng phất màu sắc u ám. Dreamcatcher và Memories of Edward chưa từng bị xóa khỏi playlist của tôi :)

Và nếu chỉ nhắc đến Alexandre Desplat với Twilight thì sẽ giống như một cô fan girl u mê, ông còn là tác giả của rất rất nhiều bản nhạc phim chất lượng trong những cái tên (quen thuộc) như The Curious Case of Benjamin Button (2008), Fantastic Mr. Fox (2009), The King's Speech (2010), The tree of life (2011), The Light Between Oceans (2016),...



List Alexandre Desplat của tôi:

Lost https://www.youtube.com/watch?v=fKWj_FpU6dM

Nothing lasts https://www.youtube.com/watch?v=pbhKtNRsVws

Dreamcatcher https://www.youtube.com/watch?v=9YNlyCJ4r9E

Score suite https://www.youtube.com/watch?v=qAev5wGPZUU

The shape of water https://www.youtube.com/watch?v=HA8dDFFvOUw

The Danish girl https://www.youtube.com/watch?v=oujuomnMPiE

The Heroic Weather-Conditions of the Universe, Part 7 https://www.youtube.com/watch?v=MbPO7OzGTqs

The King's Speech Score https://www.youtube.com/watch?v=Axo9Wv1sUaI


2. BECK - KẺ THỬ NGHIỆM LOFI TÔI YÊU NHẤT

Beckie không thực sự thân thuộc với khán giả trẻ Việt Nam so với một số cái tên của nền nhạc Âu Mỹ (như Kanye West chẳng hạn, tôi đùa thôi). Cũng vì lẽ đó, âm nhạc của Beck đối với riêng tôi, giống như được bước vào khoảng không mà mọi thứ đều chờ đón, tuyệt nhiên không thể đoán điều gì đang ở phía trước.

Debut từ thập niên 90 với âm nhạc chủ đạo là folk và rock, giống như một chú tắc kè hoa với thử nghiệm táo bạo, lofi mang đến màu sắc hoài niệm trong thời đại hifi lên ngôi.



List Beck của tôi:

Everybody's Gotta Learn Sometimes https://www.youtube.com/watch?v=YFw4hlFSXe4

Ramona https://www.youtube.com/watch?v=dIuB56pbYMs

Blackbird chain https://www.youtube.com/watch?v=Vm7x2N9VUZE

Don't let it go https://www.youtube.com/watch?v=OXhgDDwsO1o

Everlasting nothing https://www.youtube.com/watch?v=82Zta-f5mbs

Colors https://www.youtube.com/watch?v=WRCA_Fo0rWA


3. LANA DEL REY - SAD GIRL

Tiếp tục là một giọng ca mà bạn-có-thể-từng-được-nghe-qua, Lana Del Rey, cô nàng không thực sự được biết đến nhiều qua địa hạt phim ảnh (OST). Ca khúc nổi tiếng nhất của cô đối với các mọt phim là Young and beautiful (nếu ai đã từng xem The great Gatsby 2013).

Từng bị phê phán bởi giọng hát live yếu, lyrics độc hại cho giới trẻ và có hơi hướng đi ngược lại với nữ quyền, nhưng tôi vẫn cho rằng nàng là minh chứng tuyệt vời cho sự hồi sinh của alternative và nhất quán trong việc thể hiện cái nhìn đầy ủy mị về tình yêu.

Big eyes, OST trong bộ phim cùng tên ra mắt năm 2014 của đạo diễn Tim Burton là ca khúc mang đậm chất u sầu, nổi bật với kèn trumpet và giai điệu có hơi hướng creepy. 



List Lana Del Rey của tôi:

Carmen https://www.youtube.com/watch?v=L6K8Uq88BEQ

Salvatore https://www.youtube.com/watch?v=wW1PIS_QZGE

Big eyes https://www.youtube.com/watch?v=Col9Av1ydS4

Blue jeans https://www.youtube.com/watch?v=JRWox-i6aAk

13 beaches https://www.youtube.com/watch?v=RQ6jjkoE-zw

Old money https://www.youtube.com/watch?v=7UihjcpT_vo

Cinnamon girl https://www.youtube.com/watch?v=Ojt0hU7wUQo


4. LA LA LAND BY JUSTIN HURWITZ

Tác phẩm lãng mạn trứ danh Hollywood này nhận được những luồng ý kiến khen chê trái chiều về cốt truyện, diễn xuất lẫn âm nhạc. Có người nói La la land lạm dụng pop, trong khi thứ mà phim cần thể hiện là jazz. Tuy vậy dưới cái nhìn của những người không chuyên như tôi, Justin Hurwitz đã rất xuất sắc, đặc biệt là khi giai điệu của City of stars vang lên.

 




List La la land của tôi:

Another day of sun https://www.youtube.com/watch?v=xVVqlm8Fq3Y

City of stars https://www.youtube.com/watch?v=VFUos9sYbHs

Epilogue https://www.youtube.com/watch?v=NkD10lhMMrg 

Someone in the crowd https://www.youtube.com/watch?v=cmkZeTX5fq0

A lovely night https://www.youtube.com/watch?v=waTDxRZ93Qc


5. JON BRION

Nhạc sĩ người Mỹ với giọng hát ấm áp này đã khiến tôi không thể rời mắt sau khi nghe "Here we go" - ca khúc trong chùm nhạc phim Punch-drunk love (2002) dù tôi chưa hề xem phim. Có những sự thật thú vị rằng đôi khi ta lại say đắm một giai điệu trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và rồi không ngăn được bản thân tìm kiếm bài hát, ca sĩ, thậm chí là cả bộ phim đó. Jon Brion đã đến với tôi như vậy đó :)




List Jon Brion của tôi:

Eternal Sunshine of The Spotless Mind https://www.youtube.com/watch?v=vC0CaGSwme0

Here we go https://www.youtube.com/watch?v=PDd3s02Y66o

You can still ruin my day  https://www.youtube.com/watch?v=IbxfykEw924

Lady bird https://www.youtube.com/watch?v=BP44M4QxRrE

Peer Pressure/Row https://www.youtube.com/watch?v=-D9mSA9_-cU





Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

I ORIGINS (2014)

 


Tôi luôn cho rằng I origins là một tựa phim lãng mạn hiếm gặp nhất. Nếu như sự lãng mạn trong những câu chuyện diễm tình được kể qua con mắt của những kẻ si tình còn các triết lý khoa học được truyền tải qua lăng kính của các nhà nghiên cứu thì ở I origins, không chỉ có chất liệu lãng mạn của tình yêu khiến người ta phải thổn thức mà việc khẳng định giá trị của khoa học hay tâm linh đã khiến màu sắc câu chuyện tình trở nên hài hòa hơn bao giờ hết. 

Lấy chủ đề đôi mắt - theo quan niệm của tín đồ Công giáo - một sản phẩm từ bàn tay của Chúa, Mike Cahill đã mở lối thông hành giữa thế giới tâm linh và khoa học bằng cuộc gặp gỡ giữa tiến sĩ sinh học phân tử Ian Grey (Michael Pitt) và cô gái bí ẩn Sofi Elizondo (Àstrid Bergès-Frisbey) tại bữa tiệc Halloween của cửa hàng S&M. Tại đây, đôi mắt xanh với những đường vân mống mắt kỳ lạ của Sofi đã khiến Ian say đắm. Trong khi Ian say sưa với dự án đi tìm nguồn gốc của mắt - một con mắt nguyên thủy để cấu thành nên mắt cho loài giun thì với Sofi, không gì có thể bác bỏ quan điểm về tiền kiếp, Chúa và sự huyền bí của tín ngưỡng tâm linh. Mentos bạc hà, loài công trắng, El Angel de la Resurreccion - bức tượng ở nghĩa trang thánh Anne hay thiếu nữ mang mặt nạ ngắm trăng trên tầng thượng, tất cả như mang đến một mặt đối lập hoàn hảo với Ian.

Mike Cahill đã mang lại một lập luận mới mẻ về mối xung đột giữa niềm tin khoa học và niềm tin duy tâm. Tuy nhiên thông điệp mang tính nhân sinh mà đạo diễn muốn truyền tải là: Vẫn tồn tại một khía cạnh trong đời sống tâm linh mà khoa học chưa có lời giải đáp, chúng không phủ định nhau mà tồn tại song song với nhau, bổ sung cho nhau. Một thông điệp không thể làm hài lòng tất cả mọi người nhưng đã đứng ở một ranh giới trung lập nhất để nêu ra cái nhìn khách quan.

Được truyền cảm hứng từ đôi mắt của cô bé người Afghanistan do Steve McCurry chụp trên tạp chí National Geographic năm 1985, những đôi mắt trong I origins không những thể hiện niềm tin và tôn giáo một cách mạnh mẽ mà còn ẩn chứa sự trăn trở về một nghiên cứu khoa học với mong muốn đập tan những suy tưởng "đôi mắt con người là do một nhà thiết kế tài ba tạo nên". Xen lẫn những thước phim về thí nghiệm và nghiên cứu, chất liệu lãng mạn của phim đã tô hồng cho cuộc sống, khi yêu người ta có thể nhìn nhận lại những quan điểm của nhau để tìm ra điểm chung dù đôi khi họ là hai thái cực.

Ý niệm về tiền kiếp thông qua đôi mắt khiến I origins đi sâu vào những khía cạnh tâm lý, đôi khi khiến chúng ta phải giật mình "Liệu có mối liên hệ nào giữa Sofi và cô bé trong trại trẻ Ấn Độ hay không?". Và khi cửa thang máy mở ra cùng với tiếng kêu cứu xen lẫn òa khóc của cô bé, chúng ta đều có thể hiểu ra tất cả.

Trong thực tế, việc mã hóa bằng sinh trắc học mống mắt được đưa vào áp dụng trong quản lý công dân ở một số quốc gia và chưa từng xảy ra hiện tượng trùng vân mống mắt. Tuy vậy, có thể một ngày nào đó câu chuyện mà I origins đặt ra giống như khoa học viễn tưởng lại trở thành thực tế? 


Sở hữu chủ đề nhạy cảm cũng giống như đi trên một sợi dây, nó có thể biến 1h30 phút của bạn thành một trải nghiệm phim giả tài liệu khô khan với hàng loạt thuật ngữ khoa học rối rắm hay một khóa giảng đạo nửa mùa. I origins đã tùy biến chủ đề này với cấu trúc tuyến tính không quá phức tạp mà vẫn ẩn chứa sự chuyển mình đáng kinh ngạc. Tuy vậy, điểm trừ duy nhất là ekip làm phim đã không thể giữ được nét hấp dẫn cho riêng mình, trailer đã nói cho bạn biết tất cả.


I origins thành công với việc xây dựng tâm lý nhân vật rõ ràng, nhất quán. Không sa đà vào những chi tiết nhỏ nhặt hay thừa thãi, chuyển cảnh hợp lý và duy trì nhịp phim ổn định. Không thể không kể đến hình ảnh độc đáo, chơi ngông của nàng thơ nước Pháp Àstrid Bergès-Frisbey với nét nồng nhiệt hấp dẫn mọi ánh nhìn. Bạn diễn Michael Pitt cũng bộc lộ cái duyên của mình với những vai nặng tâm lý sau The dreamers (2003) gây tiếng vang. Tôi hoàn toàn bị thuyết phục bởi tình yêu của họ, dù đó là khi Ian có suy nghĩ ích kỷ về cái chết sẽ xảy đến một-lúc-nào-đó với người tình bé nhỏ của mình.

I origins - cái tên đồng âm với Eye origins được sử dụng làm tiêu đề phim hàm chứa một ẩn ý. Đôi mắt không chỉ có một nguồn gốc, là gene PAX6 giúp tạo ra hình dạng sơ khai của mắt mà Ian và Karen tìm ra trong phòng thí nghiệm, nó còn là một dấu hiệu của tiền kiếp & hậu kiếp - những liên đới mỏng manh và vô hình trong hành trình của linh hồn mà không phải ai cũng nhận ra được.


Bạn có tin vào chúa không?

Không ít lần tôi đã không kìm chế nổi khi gặp một số bạn trẻ hỏi tôi câu này. Giờ đây thay vì nổi cáu và xua đuổi họ, tôi đã học cách hiểu và đồng cảm về đời sống tâm linh của họ. Nếu bạn tin, cuộc sống của bạn được đặt sau cánh cửa tâm linh đóng kín, còn nếu bạn không tin, ít nhất hãy tôn trọng đức tin của họ. Vì ai biết có điều gì phía sau cánh cửa đó chứ?!!!


Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

Một số địa điểm chiếu phim tại Hà Nội

       Tôi đã cất công viết bài review về một tựa phim lãng mạn mà tôi rất yêu thích. Bài viết đó tôi đã đọc và sửa lại không ít lần, nhưng sau cùng tôi vẫn thấy câu chữ của mình chưa thể hiện được cái thần và sự xuất sắc của phim. Là người viết, ai cũng có những lúc loay hoay với vốn từ và cảm hứng viết mà. Vậy nên thay vì viết review, tôi chia sẻ với các bạn một chủ đề khác mà tôi từng rất muốn viết thành một bài.

Bài này hơi ít chữ - nhiều hình. OK, let's start!


Không biết các bạn ra sao, tôi thì hay đi xem phim một mình. Nơi tôi thường tới là các địa điểm chiếu phim ngoài rạp chiếu. Nghe có vẻ không hấp dẫn lắm, tuy nhiên với tính cách của người hướng nội thích tận hưởng sự chậm rãi và gặm nhấm phim cũ, xem phim một mình ở các rạp chiếu tại gia là một lựa chọn hàng đầu trong những lúc rảnh của tôi. 

Các địa điểm trong danh sách được cập nhật cho tới thời điểm hiện tại, sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên, hình ảnh trong bài viết là do tôi chụp.

1. Gác Miên


Quán cà phê nằm ở một khu tập thể tại Tôn Thất Tùng nhộn nhịp. Địa chỉ hơi khó tìm, tuy nhiên đây là một địa điểm khá nổi tiếng với các tay máy film và các mọt film luôn :)

Gác Miên tổ chức chiếu phim theo đợt (trước đây là tầm 1-2 tháng/đợt) và duy trì suất chiếu 24h đêm thứ bảy, có chỗ trú đêm. Cần đăng ký trước để đặt chỗ.

Các phim đã chiếu gần đây (tôi chỉ xem tại Gác có 1,2 phim tôi nhé :) )

Lost in translation, The dreamers, Vertigo, In the mood for love, Into the wild, Days of being wild,...


2, Echoes coffee


Tôi từng bỏ lỡ khá nhiều phim hay mà Echoes chiếu, sở dĩ vì Echoes ở tít tận Trần Hưng Đạo. Giờ chiếu thường kết thúc muộn và tôi phải bắt xe ôm đi về :((

Echoes chiếu khá đa dạng, phim dễ xem và các đợt chiếu không quá xa nhau. Tôi thích đi bộ đến ngõ Hạ Hồi, ngó lơ một hồi để tìm cửa hiệu không có biển tên dễ thương này.

Nhược điểm của Echoes là dàn loa hơi rè, nhưng tôi rất thích cái cách mà The blower's daughter (Damien Rice) trong Closer (2004) cất lên trong phòng chiếu của Echoes.

Do ảnh hưởng của covid nên có vẻ các đợt chiếu sẽ chưa thể quay trở lại ngay được.

Phim đã chiếu gần đây:

American beauty, 2012, Closer, Boyhood,...


3, TPD


TPD là tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ các hoạt động làm phim tại Việt Nam. Hoạt động chiếu phim của TPD thường là theo chủ đề nhất định và mang tính học hỏi nhiều hơn giải trí. Tuy nhiên tôi có cơ hội lọt thỏm ở hàng ghế cuối của phòng chiếu và tận hưởng The fall (2006), đó thật sự là một cảm giác rất tuyệt vời, dù tôi không hề có chuyên môn về điện ảnh như các bạn xung quanh :)

Ngoài chiếu phim, TPD còn tổ chức các lớp học về nghiệp vụ đạo diễn, diễn xuất, biên kịch, cảm nhận phim. Thư viện và phòng chiếu cũng rất xịn xò

Phim đã chiếu gần đây:

The tree of life, Carol, Far from heaven,...


4, Tranquil Book & Coffee


Giống như cái tên, Tranquil mang đến bình yên cho tôi qua nhiều ngày mệt mỏi. Sở hữu một chuỗi các Tranquil nằm rải rác tại các khu phố cổ như Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Biểu, Hàng Mành hay Trần Hưng Đạo nhưng mỗi một cửa hàng lại có điểm nhấn riêng. Các buổi chiếu phim thường được tổ chức ở số 5 Nguyễn Quang Bích và Trần Hưng Đạo (bạn có thể đến Nguyễn Biểu để nghe piano hoặc đọc sách). Phim đôi khi được chiếu theo chủ đề hoặc ngẫu hứng, đa dạng thể loại và uhm, good taste!

Phim đã chiếu (và tôi đã xem)

Closer (xem ở Tranquil rồi lại qua Echoes xem tiếp), Three times, Holy motor, Secret,... (nhiều quá không đếm hết)


5, cùi dìa


Một địa điểm chiếu phim không thể bỏ qua đối với tín đồ phim cổ điển đen trắng huyền thoại. Tôi có vốn hiểu biết khá khiêm tốn về dòng phim này nên đi xem phim cũng coi như là một hình thức học tập :)

Không cố tình PR nhưng đây là quán đồ uống tươi, sạch và có tâm nhất tôi từng biết

Phim đã chiếu:

12 angry man, A hard day night, Sunset Boulevard,...


6, Ơ zone - Films, Art and Coffee


Ơ zone là một địa điểm xanh và vì môi trường (thú vui trồng cây trong nhà của tác giả bài viết này cũng xuất phát từ đây hehe). Nằm chung nhà với Xlab nên không khó để bắt gặp các tay máy phim tác nghiệp tại đây. Trước đây các buổi chiếu của Ơ zone diễn ra thường xuyên, gần đây thì không còn duy trì được tần suất này nữa, có thể do một hôm trời mưa nào đó Ơ zone đã chiếu In the mood for love cho mình tác giả bài viết này xem :(

Phim đã chiếu

<không có thông tin>


7, Chủ nhật


Chủ nhật không biển hiệu, không dễ tìm đường đến nhưng lại có một không gian khá ấm áp, thích hợp cho bất cứ một cá nhân nào muốn tìm nơi yên tĩnh. Có dịp ghé qua Chủ nhật trong một ngày thứ bảy (nghe có vẻ chơi chữ) và không có may mắn được xem phim tại đây, tôi vẫn rất mong được quay lại vì thực lòng mà nói tôi đã nhảy tưng tưng lên khi biết Chủ nhật đã chiếu Eternal sunshine of the spotless mind.

Phim đã chiếu

Eternal sunshine of the spotless mind, Into the wild, Mr. Nobody



Ngoài ra còn 2 địa điểm (tuy 2 mà là 1 vì đã về chung nhà với nhau) là The booksmith và Tổ chim xanh tôi đã rất muốn ghé qua nhưng chưa có điều kiện nên chưa thể review.

Hi vọng bài viết đã mang đến thông tin có ích cho các bạn. Biết đâu bạn đã từng gặp tôi ở một buổi chiếu nào đó nhưng không biết đó là tôi *hihi*

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020

TRAINSPOTTING (1996)

Nếu có thể dùng một mỹ từ nào để nói về Trainspotting, đó chắc chắn là “độc đáo đến mức trần trụi”. Ra đời vào năm 1996, thời điểm mà nền điện ảnh Anh quốc đang trong cơn khát những tác phẩm chất lượng, Trainspotting – chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của văn sĩ người Scotland Irvine Welsh – đã gây tiếng vang không chỉ trong giới phê bình mà còn được biết đến rộng rãi bởi khán giả yêu thích màn ảnh rộng. Ewan McGregor khi đó còn là một diễn viên vô danh, sau Trainspotting anh nổi lên như một ngôi sao mới, liên tục nhận các dự án phim tầm cỡ. Cũng vì yêu mến anh nên tôi đã chọn một phim khó đánh giá như Trainspotting để viết bài. Trước hết, Trainspotting không đơn thuần chỉ nói về tác hại của ma túy mà còn mang tính đả kích về mặt văn hóa-chính trị, sức ảnh hưởng về âm nhạc của các tên tuổi lớn như Lou Reed, Iggy Pop lên văn hóa đại chúng, sự lạc lối của người trẻ trong mê cung của hoan lạc say đắm đi kèm với những rũ bỏ nửa vời trước ngưỡng cửa trưởng thành.


Chọn cuộc sống. Chọn công việc. Chọn sự nghiệp. Chọn một cái ti vi to tổ chảng, chọn máy rửa bát, xe hơi, máy quay đĩa, máy mở nắp đồ hộp. Chọn sức khỏe, ít choresterol, bảo hiểm nha khoa. Chọn thanh toán thế chấp lãi cố định. Chọn nhà ở. Chọn bạn bè. Chọn bộ đồ và hành lý. Chọn bộ suit ba chiếu mua trả góp bằng loại vải chết tiệt nào đấy. Chọn tự lập và tự hỏi bạn là thằng quái nào vào sáng Chủ nhật. Chọn ngồi xem mấy chương trình gameshow nhạt nhẽo và tống đầy đồ ăn vặt vào miệng. Chọn trở nên mục ruỗng trong ngôi nhà khốn khổ không gì hơn là xấu hổ với ích kỷ, con người rắc rối của bạn được sinh ra để thay thế chính bạn. Chọn tương lai. Chọn cuộc sống.

Nhưng tại sao cần phải chọn. Tôi không chọn cuộc sống này. Tôi chọn một thứ khác. Lý do à? Không có lý do nào hết. Ai cần lý do khi có heroin chứ?


Từ lời dẫn của Renton, nhân vật chính và cũng là thành viên của nhóm năm gã trai Scotland không tiền, không tương lai, người xem đã có thể thấy thể trạng bất cần không do dự của một bộ phận giới trẻ Edinburgh trước làn sóng thay đổi về lối sống. Sick boy, Renton, Spud gắn bó với nhau qua những cơn phê thuốc bất tận, Begbie nghiện bạo lực đập phá. Còn Tommy, anh chàng khốn khổ đặt cả cuộc sống vào tình yêu với cô bạn gái Lily. Năm người bọn họ đều phụ thuộc vào một thứ gì đó để duy trì khoái cảm và ham muốn sống. Sự duy trì mang tính cầm chừng đã đẩy họ vào thế lưỡng nan của con nghiện đói thuốc, muốn thêm nhiều, thỏa mãn thêm nhiều và muốn dừng lại nhưng không thể. 

Trở lại với câu chuyện lựa chọn của Renton, Danny Boyle đã đặt ra một câu hỏi đầy hàm ý. Người trẻ đứng trước cuộc đời, họ buộc phải lựa chọn. Từ điều nhỏ nhặt như chọn cà phê hay bánh mì buổi sáng cho đến những việc to tát như chọn bạn đời. Vậy điều gì xảy ra khi nền giáo dục lờ đi việc thuyết phục bản ngã của họ phải lựa chọn? Tại sao phải lựa chọn tất cả những thứ này? Con đường nào cũng có gánh nặng và khiến họ giãy giụa trong khát vọng tiền tài, mong ước một cuộc sống no đủ cho thế hệ sau. Nếu như họ không thích chọn, họ muốn phá kén để tận hưởng khoái lạc của sự ích kỷ thì sao? Đó chính là cái cách mà ma túy len lỏi vào cuộc sống của những gã trai hư như Renton. Khủng hoảng sự lựa chọn nói lên sự thật rằng: nếu như gia đình và xã hội không có trách nhiệm hướng giới trẻ đến với giá trị đích thực của cuộc sống, họ sẽ phải trả giá.

Trainspotting hội tụ đầy đủ những thước phim gây shock. Nhiều hơn một cảnh tình dục với trẻ vị thành niên, năm cảnh tiêm chích trực diện, không ít lần tấn công bằng vũ khí, mười lần Renton và đồng bọn phê thuốc và có đến 131 lần thoại có chứa từ chửi thề. Tính thô ráp của các cảnh quay này phù hợp với dụng ý thể hiện mặt cắt trần tục của ma túy. Tuy dễ làm ủy mị những con tim yếu mềm, cách kể chuyện bằng ngôn ngữ điện ảnh của phim lại không hề khó khăn để làm hài lòng những khán giả yêu phân tích và đoán định. Nghệ thuật chèn cảnh siêu thực trong hình ảnh và quay phim đã đem lại cho Trainspotting hiệu ứng thị giác vô cùng hấp dẫn. Nhiều góc máy đặc biệt được khai thác, như góc máy hội tụ tái hiện lại sự bó hẹp của kẻ nghiện trong ảo giác của chính hắn, hay góc đổ của khung hình quan tài mà Renton tưởng tượng ra mình lọt vào sau một cú chích quá liều. Cũng không thể không kể đến bản Perfect day (thể hiện bởi Lou Reed) hoàn hảo như tuyên thệ cho sự buông bỏ cuộc sống.

Trainspotting không chăm chút quá nhiều mảng kịch bản, mà tạo nên đột phá ở bước chuyển mình của nhân vật chính. Giống như đi trên một con đường mòn từ đầu chí cuối, trên đường ta chạm trán vật cản, rơi xuống ổ gà hay bị hất tung bởi một con xe Porsche cổ điển nào đó. Tất cả chuyến hành trình đó đưa Rent boy về bản ngã thực sự và tạo nên con người trọn vẹn của anh. Việc lồng ghép yếu tố chính trị mang thông điệp rất rõ ràng. Sự kệch cỡm và lai căng trong đời sống tinh thần tạo nên hình hài cư dân Scotland thiếu bản sắc và phụ thuộc vào nền văn hóa đô hộ bởi người Anh. Từng lời than trách của Renton về xã hội Edinburgh như một tiếng thở dài ngao ngán cho quá khứ của Irvine Welsh, dù là oán giận nhưng cũng là lời trách cứ cho chính bản thân Scotland.

Và cuối cùng Renton đã chọn gì. Xem phim đi các bạn :D


Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2020

Trời sáng rồi ta ngủ đi thôi (2019)


Là một tác phẩm đến từ đạo diễn Chung Chí Công năm 2019, Trời sáng rồi ta ngủ đi thôi lấy chủ đề về sự lạc lối của người trẻ nơi đô thị trên nền chất liệu nhạc indie giàu cảm xúc. So với mặt bằng chung của phim Việt, Trời sáng rồi ta ngủ đi thôi đã có một bước tiến khá xa về mảng diễn xuất và kịch bản. Biên kịch đã rất táo bạo khi dám tách mình khỏi khuôn mẫu các phim chứa yếu tố hài - kinh dị mà ta thường thấy ở các phim Việt những năm trở lại đây để tạo ra một cốt truyện mới mẻ mà chưa đạo diễn Việt nào dám thử sức. Cái khó ở đây là làm sao giữ chân được khán giả trong rạp khi câu chuyện hoàn toàn dựa vào hầu hết các cảnh đối thoại của hai nhân vật chính. Một điều khó hơn nữa mà phim đã làm được chính là tạo ra sự liền mạch cho mạch phim, dù có chuyển bối cảnh đôi lần nhưng không hề làm gián đoạn quá trình thưởng thức bộ phim.

 

Trước hết cần dành lời khen cho toàn bộ ekip khi đã mang đến những thước phim chỉn chu và có chiều sâu. Nổi bật với những cú long take và đổi hướng màn hình liên tục, đạo diễn hình ảnh đã bắt trọn được những khoảnh khắc hết mình với âm nhạc của hai diễn viên chính. Dù khá kiệm lời khen nhưng tôi thực sự đã rất ấn tượng với khả năng ca hát của Trần Lê Thúy Vy (vai Thanh) và Hà Quốc Hoàng (vai Tâm), hai bạn trẻ làm tốt vai trò kể chuyện qua âm nhạc và diễn xuất tự nhiên. Ngoài ra không thể phủ nhận gam màu vintage phủ bóng lên các không gian mà cả hai đi qua, vừa đem lại cảm giác hoài niệm vừa nâng tone cho các shot hình trở nên ấm áp kì lạ. Cho dù câu chuyện tuổi trẻ của họ có chênh vênh thì vẫn tồn tại một sự tin tưởng và an tâm vững chắc qua gam màu này.

Nói đi cũng phải nói lại, dù là một phim tốt ở thời điểm hiện tại, nhưng đây không phải là phim dành cho đại đa số các bạn trẻ như những gì được quảng bá trên truyền thông. Việc mà một phim tốt cần làm là lấy được sự đồng cảm của người xem, nếu không làm được thì sẽ cầm chắc thất bại. Lấy một nhân vật như Tâm làm khuôn mẫu cho cuộc sống nay đây mai đó của tuổi trẻ Sài Gòn, điều này khó gây dựng được mối đồng cảm với người xem. Mối trăn trở của Tâm, nếu không phải là người từng kinh qua trải nghiệm thất bại trong nghề làm nhạc, thì chắc chắn chẳng ai quan tâm.

 Không phải là sự lạc lối của người trẻ nói chung, đây là sự bế tắc trong cuộc đời của người làm nhạc độc lập, không tiền, không người ủng hộ, cũng không biết tương lai đi đâu về đâu. Khi gói gọn sự bấp bênh của tuổi trẻ bằng trải nghiệm cá nhân của Tâm, phim đã vô hình chung làm nên một xuất phát rất khó đồng cảm. Ngay ở cuộc đời qua lăng kính của Thanh cũng không thể cứu vớt trải nghiệm của khán giả, vì Thanh càng khó đồng cảm hơn nữa. Thanh không màng danh lợi, cũng không màng tương lai. Cô sẽ về Đà Lạt mở homestay, chấm hết. Cứ như một sự sắp đặt nào đó khiến cô nàng vô cùng ung dung tự tại, không tồn tại sự lo lắng hay bất an mà Tâm đang mang. Tôi không cho rằng đó là hình ảnh mà người trẻ nên hướng đến. Cho nên tính kết nối giữa hai nhân vật trở nên vô cùng lỏng lẻo. Chưa kể đến phản ứng hóa học giữa hai nhân vật khiến tôi phải ồ lên trong đoạn kết: Hóa ra anh ấy thích cô ấy sao? Và cô ấy cũng chờ đợi anh ấy đi tìm mình? Cảm xúc giữa họ rất khó tin, vì trong suốt những ngày thong dong cùng nhau, họ ít có sự kết nối về mặt cảm xúc đến mức tôi nghĩ họ đơn thuần là một người đưa ra câu chuyện một người đưa ra lời khuyên. Khi Tâm đến Đà Lạt tìm Thanh và bày tỏ tình cảm của mình, một sự gượng gạo đáng kể xuất hiện, cho dù hai nhân vật đã dùng ánh mắt ý nhị và cười mỉm với nhau để khỏa lấp. Tuy vậy là không đủ để đẩy cảm xúc lên cao và khiến tôi có chút chưng hửng.

Đây là một bộ phim không dành cho số đông, mà dành cho bộ phận những nghệ sĩ làm nhạc indie. Họ là những người đã nản chí trước hành trình dài, và có thể trong số họ đã có người từ bỏ âm nhạc để làm công việc bàn giấy hay bất cứ một nghề nghiệp nào có thể khiến họ trụ vững ở thành phố phồn hoa. Việc truyền thông chưa đúng đối tượng khán giả khiến Trời sáng rồi ta ngủ đi thôi bị chê là nhạt nhẽo không có cao trào, thậm chí bị cắt suất chiếu. Đạo diễn Chung Chí Công đã đăng đàn kêu gọi cứu phim indie, điều này một mặt đã khiến nhiều người trẻ ủng hộ nhưng một mặt cũng khiến người ta hoài nghi và quay lưng lại với phim vì cho rằng đây chẳng khác gì một chiêu trò. Tính đúng sai của sự việc nằm ở góc nhìn của mỗi người, tôi không phán xét chuyện này. Tuy nhiên điều mà phim có thể nhìn lại và rút ra bài học đó là liệu phim đã làm đúng với những gì mà người xem mong mỏi hay chưa, câu chuyện của phim có thực sự thuyết phục hay chỉ đang dạo quanh cuộc đời của một nhân vật khó lấy được sự đồng cảm? Câu trả lời hẳn là không khó để tìm ra.

Khi xem Trời sáng rồi ta ngủ đi thôi, tôi nhận ra một vài nét tương đồng của phim và Before sunrise (1995) & Once (2006). Hai con người một nam một nữ tình cờ gặp mặt, cảm thấy đồng điệu nên họ quyết định đồng hành cùng nhau để tâm sự và chia sẻ sở thích hay những mẩu chuyện nhỏ nhặt. Thông qua những trao đổi hết sức riêng tư đó, họ hiểu con người nhau và cả hai đều ngập ngừng trước việc ra quyết định có nên nghiêm túc với người kia hay không.  Điều thú vị là bối cảnh Sài Gòn được đan cài vào rất tự nhiên khiến hành trình của hai nhân vật vừa gợi nhắc đến hai phim nổi tiếng mà tôi nhắc đến bên trên, vừa mang chút thi vị riêng của mảnh đất được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông một thời.

Tựu chung lại Trời sáng rồi ta ngủ đi thôi là một phim đáng xem của điện ảnh Việt thời điểm hiện tại. Tuy còn một vài điểm yếu, nhưng đối với những bạn yêu âm nhạc indie hay làm nhạc indie, tôi nhiệt liệt recommend. Vì biết đâu, bạn sẽ bắt gặp hình ảnh của chính mình ở trong phim thì sao?

 

 


Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2020

THE PRETTY ONE (2013)

Nếu như bạn chưa biết, blog này hoàn toàn là trải nghiệm cá nhân của tôi về phim ảnh, không thực sự đi sâu vào chuyên môn vì tôi là một kẻ ngoại đạo. Vì là sở thích cá nhân nên các bộ phim tôi chia sẻ có thể hay với tôi, không hay với bạn, điều đó là hoàn toàn bình thường. Cuộc sống tự do cá nhân của mỗi người là của riêng họ, không nên áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác, chúng ta có thể luôn vui vẻ tận hưởng những khác biệt của mọi người. Điều đó khiến tôi trưởng thành hơn và biết dung hòa tính cách.

Lan man vậy, hôm nay tôi muốn viết về Zoe Kazan và phim tôi thích nhất của cô nàng "The pretty one" (2013).

 

Zoe Kazan sinh năm 1983 tại Los Angeles, Mỹ trong một gia đình có truyền thống về nghệ thuật. Điểm mà tôi thích nhất ở Zoe là cô nàng đi theo hướng viết lách và có một cuộc sống riêng tư rất đáng ngưỡng mộ. Nếu như được biết đến nhiều hơn với vai trò diễn viên trong vai chính Ruby Spark (trong phim cùng tên do cô biên kịch và đóng cặp với Paul Dano năm 2012) và gần đây là Emily Gardner (The big sick 2017), Zoe lại khá nổi tiếng ở Mỹ với vai trò viết kịch/biên kịch. Gần đây nhất có thể kể đến Wildlife, kịch bản được chắp bút bởi Zoe và Paul, đồng biên kịch và cũng là bạn trai của cô.

Zoe là một nàng thơ của indie film, điều này không chỉ toát lên từ nhan sắc xinh đẹp không thể lẫn lộn của nàng mà còn từ diễn xuất tự nhiên trong những phim indie không được biết đến rộng rãi. Đồng hành cùng biên kịch Jenée LaMarque, Zoe tỏa sáng với vai nữ chính trong The pretty one (2013). Đến nay đối với tôi mà nói, đây vẫn là một phim gây thương nhớ nhất của Zoe.

The pretty one đưa chúng ta đến với vùng quê nước Mỹ trong mùa hè trong trẻo, nơi diễn ra một câu chuyện liên quan đến hai chị em sinh đôi mất mẹ sớm. Hai chị em Audrey và Laurel (cùng do Zoe thủ vai) như hai thái cực trái ngược nhau, Audrey mạnh mẽ, độc lập còn Laurel yếu đuối, hoài niệm. Hoài niệm có phải là một điều không tốt? Có thể, đôi lúc. Tôi luôn cho rằng con người có thể hoài niệm để sống một hiện tại tốt hơn, tuy nhiên chỉ sống mãi với quá khứ có thể khiến ta không thể tỉnh ngộ để đối diện với thực tế.

Laurel là một cô gái như vậy. Gắn bó với vùng quê nghèo bằng cách chép lại các tranh của các danh họa nổi tiếng, Laurel sống với cha mình, Frank và người mẹ kế tương lai, May. Cô luôn chăm sóc cho cha giống như một bảo mẫu, mặc lại chiếc váy của người mẹ quá cố như một cách tiếc nhớ quá khứ, và luôn muốn được giống như người chị gái đầy tự tin mạnh mẽ, Audrey. Laurel chưa bao giờ có ý định thoát ra khỏi cái kén bao bọc mình. Tuy nhiên cuộc đời này luôn cho ta những bài học để trưởng thành hơn, nhưng ta luôn phải đánh đổi một điều gì đó để đạt được nó. Đối với Laurel, bài học đó là mất đi Audrey.

Từ những cảnh quay đầu tiên, sự sao chép chính là tâm điểm. Có thể dễ dàng nhận ra trên phông nền yên bình của làng quê nước Mỹ, mọi sự phản chiếu ở hai chị em sinh đôi đều quét qua: hai chiếu giường đơn đặt đối xứng, kiểu tóc mà Laurel copy-paste cả chị mình, thậm chí nghề nghiệp của Laurel cũng là đi sao chép tranh. Khi làm bất cứ điều gì, Laurel đều liên tưởng xem Audrey từng làm nó ra sao, ngay cả trải nghiệm mất trinh của Audrey cũng được Laurel nhắc lại với một thái độ không nghiêm túc. Qua hồi hai của phim, tính công thức trong hành động của Laurel vẫn không hề mất đi. Sau cái chết của Audrey, Laurel trực tiếp hóa thân vào vai diễn Audrey trong vở kịch cuộc đời đang dang dở của cô chị gái đoản mệnh. Sống trong lốt Audrey, cư xử ấu trĩ như Laurel, làm đảo lộn tất cả các mối quan hệ, cô gái này không hề nhận ra trải nghiệm của mình là sai trái. Phản ánh phần nào bộ mặt yếu đuối, ưa dựa dẫm và không có chính kiến, nhân vật Laurel đã thể hiện cái tôi ích kỷ vượt qua chuẩn mực đạo đức thông thường. Điều không toàn vẹn và đi chệch mọi dự đoán của Laurel chính là cô đã gặp gỡ và yêu Basel (Jake M. Johnson thủ vai) - kẻ đáng lẽ ra Audrey rất căm ghét. Basel là nhân vật nền để Laurel nhận ra sai lầm giả danh của mình và cố gắng thay đổi để tìm về bản ngã thực sự.

Bằng ngôn ngữ điện ảnh không dành cho số đông, Jenée LaMarque đã tạo nên một The pretty one khác lạ khi không sở hữu những cảnh quay gãy gọn và đôi khi thiếu sự móc nối giữa các trường đoạn. Chính sự không hoàn hảo và thiếu chuẩn mực đó lại tạo nên nét độc đáo của bộ phim indie này. Tôi rất thích bức tranh chỉ có hai mảng màu xanh đen mà Laurel vẽ sau màn lộ tẩy thân phận, tuyệt nhiên không phải là bản sao của bất kỳ một ai. Đó là cảm xúc thuần khiết nhất về Basel mà Laurel đã thấy được ở bể bơi trong một đêm hè, khi Laurel rũ bỏ cái tôi của chị gái để ở bên Basel.

Việc hóa thân vào hai vai diễn có tính cách đối lập không thể làm khó Zoe Kazan. Dễ dàng nhận ra sự độc lập và quyết đoán của Audrey, vẻ nhút nhát nhu mì cùng cái tôi ích kỷ của Laurel đã được Zoe thể hiện tốt. Tuy vậy, để nói một cách công bằng thì đây không phải là vai diễn quá xuất sắc, sự vừa đủ trong cách thể hiện đã tạo ra một tổng thể hài hòa từ cốt truyện, diễn xuất, quay phim và lời thoại. Tôi luôn mong chờ ở Zoe trong các dự án tương lai, đương nhiên vẫn trên tư cách một nàng thơ indie xinh đẹp.

 

***

Là chính mình, tôi cá đây là bài học mà chẳng có trường học nào dạy bạn. Có khi đó chỉ là những điều "nghe có vẻ sáo rỗng, văn vẻ" mà cha mẹ của bạn sẽ giúp bạn thức tỉnh rằng Nào tỉnh dậy đi cô bé mơ mộng, đã đến lúc gấp lại truyện cổ tích để học tập và lao động rồi đó, con người của thế kỷ 21. Thế nên quan niệm về những gì tốt cho bản thân mình, người ngoài cuộc không thể nói cho bạn biết. Họ sẽ cho bạn những lời khuyên có ích, nhưng bạn luôn phải có chính kiến của mình. Đó là điều mà The pretty one đã dạy tôi. Bạn có thể là bản sao của ai đó, một lúc nào đó, nhưng đừng làm thế mọi lúc. Bạn phải là chính mình, tìm ra bản thân mình trong đống hỗn độn của cuộc sống ngoài kia. Con đường của người khác dẫn họ đến vinh quang , viên mãn nhưng không chắc chắn bạn cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc khi đi con đường giống họ. Nếu bạn muốn, hãy làm. Còn không, xin đừng!

Tôi cũng có một vài khoảng thời gian như Laurel, tôi nhìn những người xung quanh và đảm bảo rằng mình làm y hệt. Để chắc chắn mình giống họ và không bị bỏ lại phía sau như một kẻ thất bại. Chúng ta đều sợ lạc lõng với thế giới xung quanh, đây chính là lý do mà ta copy paste từ người khác. Tuy nhiên sẽ thật là thất bại khi ta không biết mình là ai, mình muốn gì nếu như cứ như một con robot bắt chước người khác.

- Vậy em đang mặc giống ai?

Basel trong mặt nạ sư tử hỏi Laurel, lúc này cô đã chọn cho mình một chiếc váy mà cô chưa từng mặc.

- Đây là em, chính em Laurel.

The pretty one - con người hoàn hảo ư? Không đâu, nếu như em hiểu rõ thì chẳng có ai hoàn hảo cả!


Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

INTO THE WILD (2007)


 Note: Bài viết có spoil toàn bộ nội dung phim.

     Tài tử Sean Penn luôn khiến người ta phải đứng ngồi không yên, trên cả cương vị diễn viên và đạo diễn.
Nếu như với vai trò diễn viên, Sean Penn gây ấn tượng với Mystic river, Milk, I am Sam hay The game thì trong vai trò đạo diễn, Into the wild đã khẳng định tài năng của nam tài tử với hai đề cử giải Oscar trong đó có giải nam diễn phụ xuất sắc nhất (Hal Holbrook vai Ron Franz).


        Phim dựa trên cuốn sách được viết bởi Jon Krakauer kể về cuộc hành trình có thật về việc từ bỏ mọi danh vọng của chàng trai trẻ Christopher McCandless (sau đổi tên thành Alexander Supertramp) để đến Alaska, theo đuổi một cuộc sống bên cạnh thiên nhiên. Cuốn sách vấp phải nhiều phản ứng trái chiều trong dư luận, một mặt coi Chris như một kẻ điên khùng, ngớ ngẩn và rác rưởi khi từ bỏ gia đình êm ấm, tương lai tươi sáng để lang bạt ở nơi hẻo lánh và cuối cùng tự chuốc cho mình cái chết; mặt khác Chris được tôn vinh như biểu tượng của sự tự do, bứt bỏ mọi xiềng xích để về với bản ngã thực sự của mình, còn gì tuyệt vời hơn là được làm những gì mình muốn và sống với lựa chọn mà mình mang. Tôi luôn cho rằng đúng sai phụ thuộc vào góc nhìn của mỗi người, không thể hoàn toàn quy tội những kẻ ngông cuồng, cũng không thể hoàn toàn mỉa mai những kẻ ngoan đạo.
     Khi đưa Into the wild lên màn ảnh rộng, Sean Penn đã phải chịu nhiều thách thức từ việc thuyết phục gia đình của Chris McCandless và từ chính nội tại câu chuyện – không dễ dàng để chuyển thể. Vì thế có thể nhận thấy cách kể chuyện của phim khác lạ với sự đan xen giữa hai dòng thời gian tuyến tính trong mạch truyện chính: Chris từ khi tốt nghiệp và Chris gặp Chiếc xe bus kì diệu. Hai dòng thời gian soi chiếu vào cùng một Chris, vừa giải thích động cơ cho chuyến hành trình của anh chàng, vừa cho người xem trải nghiệm một thế giới đời thật sống động.

“Tôi yêu con người, nhưng tôi yêu thiên nhiên nhiều hơn!”

      Lời tự sự của Chris bước đầu như một lời khẳng định cho mong muốn của anh. Là một sinh viên thông minh của trường đại học có tiếng, một người con trai đáng tự hào của đôi vợ chồng sở hữu khối tài sản bạc tỉ, và có một người em gái thân thiết cùng chia sẻ tuổi thơ, nhưng Chris đã gạt bỏ tất cả để lên đường. Trên đường đi, anh đốt hết số tiền giấy, lang thang qua nhiều địa danh để đến được Alaska. Gặp gỡ nhiều con người, có khi là một đôi vợ chồng ngao du khắp nơi, có khi là một ông già đã gần đất xa trời luôn phải chống chọi với cô độc, có khi là một ông chú sức dài vai rộng sẵn sàng chia sẻ mọi kinh nghiệm mình có, thậm chí là một cô gái tuổi mười sáu với rung động đầu tiên, rốt cuộc Chris vẫn đi theo tiếng gọi của lý trí mình. Lời dẫn truyện của cô em gái Carine mang đến một cái nhìn khách quan hơn, như một trục đối xứng với lời dẫn của Chris trong mạch truyện Chiếc xe bus kì diệu.
      Gia đình Chris không hoàn hảo như trong tưởng tượng của những người xung quanh, nhưng mà ai mà chẳng thế chứ không riêng gì gia đình của Chris. Tuy nhiên, càng sớm trưởng thành trong một môi trường coi trọng tiền bạc, danh tiếng và sự hào nhoáng hư ảo, Chris càng sớm có cái nhìn cực đoan về tiền tài danh vọng. Biến cố lớn đến với anh em Chris khi anh phát hiện cha mình từng có con riêng, tệ hại hơn nữa ông đã gạt bỏ máu mủ của mình để về với tổ ấm hoàn hảo này. Cuộc hôn nhân chắp vá của hai người dường như là vỏ bọc cho mọi câu chuyện phức tạp bên trong. Đó chính là động cơ cho sự ra đi của Chris.

      Into the wild thổn thức về tự do, niềm tin và giấc mơ của Chris. Giữa đồng cỏ hoang vu, chàng trai trẻ đắm chìm trong khung cảnh bầy ngựa và ánh hoàng hôn. Không tiền, không con người, không ràng buộc chính trị, và thiếu đồ dùng sinh hoạt thiết yếu, Chris tự mình tạo nên một cuộc sống vượt ra khỏi ranh giới an toàn. Tại Chiếc xe bus kì diệu, chàng trai trẻ đã sống tự tại, săn bắn và hái lượm, ghi lại hành trình của mình qua từng ngày. Anh muốn chứng minh rằng mình hoàn toàn có thể sống mà không cần tiền, việc làm hay danh tiếng. Thiên nhiên không làm đau ta như cách mà con người từng làm.
      Ấy vậy mà thiên nhiên đã mang Chris đi trong một cái chớp mắt đầy bàng hoàng. Đây chính là điểm gây nên tranh cãi dữ dội về ranh giới giữa một người hùng và một kẻ ngu xuẩn. Nhưng tôi cho rằng Chris đã có một cái chết mãn nguyện, vì anh đã sống một cuộc sống bản lĩnh, tự tin đi theo những gì bản thân mong muốn và không ngại đấu tranh chống lại ràng buộc của thế giới loài người đối với mình. Ánh mắt của Chris trước lúc lìa đời không oán hận mà giống như đang biết ơn. Ai đó sẽ đau lòng thay cho chàng trai trẻ, nhưng ai đó cũng biết cái chết thực ra không phải là một sự trừng phạt.

     Cảnh mà tôi ấn tượng nhất trong phim đó là khi Chris đứng trước một quán bar, anh nhìn thấy hình ảnh mình trong một anh chàng nhân viên văn phòng quần tây áo vest chỉnh tề với nụ cười dán trên môi một cách cường điệu. Đó đã có thể là Chris trong một hiện tại khác, một hiện tại đầy giằng xé khi anh đi theo con đường mà cha mình đã định sẵn: tốt nghiệp, xin việc, mua nhà, kết hôn và có những đứa con. Chris đã bỏ qua những giọt nước mắt của anh trên khung hình, đó là hiện thực mà cha mẹ anh mong muốn, còn với anh đó là chỉ như một trò chơi trong giấc mơ danh vọng mà thôi.

     Chẳng phải mong muốn của chúng ta trên đời này là sống tự do hay sao? Chúng ta làm mọi thứ để được tự do, làm những gì mình muốn. Tôi chợt nhớ đến một cô ca sĩ nọ, những năm gần đây nàng nổi lên như một hiện tượng của dòng nhạc Alternative rock/Dream pop với chất liệu Sadcore dù trước đó nàng chỉ là một cô ca sĩ hộp đêm với áo font quần jeans chẳng ai biết tới. Những ai biết tới nàng lần đầu sẽ shock khi thấy nàng hát live thảm hại, giọng thều thào như sắp chết, và đôi khi nàng hút vape khi live, nàng hôn trai lạ trên phố và nàng còn mặc quần cạp trễ để khoe hình xăm,... Vậy mà nàng tự do, đó là điểm tôi thích nhất ở nàng. Mấy ai dám tự do thể hiện bản ngã, hay chỉ biết núp sau mặt nạ của chính mình, làm những gì mà người khác muốn.
Rồi một ngày bạn sẽ thấy mình như tượng sáp vô hồn vì làm theo những khát vọng của người khác. Còn khát vọng của chính mình thì sao?

 “Nếu em muốn gì trong đời, em hãy mở bàn tay ra và nắm bắt lấy nó”

Thứ Ba, 2 tháng 6, 2020

PARIS, TEXAS (1984)

Paris, Texas (1984), tựa phim tương đối cũ của đạo diễn Wim Wenders dễ làm chúng ta liên tưởng đến phim cao bồi miền tây những năm 60 với cảnh sa mạc suốt những phút đầu. Phim là hành trình của Travis, một người đàn ông lang thang gần như chết khát trên sa mạc, được người em trai tại Los Angeles đến nhận đoàn tụ. Vì một cú sốc nào đó mà đạo diễn đã cố tình giấu đi, Travis không chịu nói một câu trong suốt quá trình đuợc Walt đón về LA. Anh đoàn tụ với người con trai 8 tuổi Hunter, được cưu mang bởi Walt và vợ khi Travis bỏ đi. Dần dần quá khứ và những rạn nứt trong mối quan hệ của Trav và vợ cũ, Jane được tái hiện qua từng câu thọai của các nhân vật.

      Nhịp phim chậm rãi trên nền nhạc guitar réo rắt tương phản với những thước phim gấp gáp hay những cú cắt cảnh gọn ghẽ mà ta thường thấy trong phim hiện đại. Nhịp điệu chậm chạp dẫn lỗi qua sự mơ hồ về thời gian, sự đứt gãy của tình người trong một khoảnh khắc mà người ta còn hoài nghi về tính liên kết trong câu chuyện mà phim muốn kể.
      Bốn năm, khoảng thời gian biến Travis từ một người đàn ông phong trần thành một ông già không hơn không kém, và cũng biến anh thành người xa lạ với con trai mình. Đi từ những rạn vỡ đến chữa lành trong mối quan hệ cha con, Trav dần trở thành một người giàu tình cảm, khác hẳn với vẻ lãnh đạm và bất cần đời của người đàn ông trên sa mạc mà chỉ một tiếng đồng hồ trước còn khiến người xem phải thắc mắc không thôi.

      Có thể nói, những gì cô đọng nhất về Paris, Texas nằm ở đoạn kết khi mà người xem đã vượt qua được gần hai tiếng đồng hồ đồng hành cùng sự chậm rãi trong cách kể chuyện. Đó là khi sự hối hận đã đưa Trav vào hành trình tìm lại Jane và nối lại mối quan hệ của cô với Hunter.
Trav gặp được Jane tại một peep-show (một hình thức giống như câu lạc bộ khiêu dâm, nơi các cô gái – stripper – làm mọi thứ để chiều lòng những customer của mình, thường là cởi đồ và nhảy những điệu erotic), nơi cô làm việc. Không cầu kỳ cho một cuộc đoàn viên ngắn ngủi, những gì được bóc tách qua hình ảnh người vợ phản chiếu qua tấm gương một chiều, ban đầu, có thể chưa đủ thỏa mãn cái nhìn đầy tò mò của người xem.
“Can I tell you something? It's kind of a long story
I knew these people... These two people. They were in love with each other. The girl was... very young, about seventeen or eighteen, I guess. And the guy was... quite a bit older. He was kind of raggedy and wild. And she was very beautiful, you know?
[..] He liked to make her laugh. And they didn't much care for anything else because all they wanted to do was to be with each other. They were always together.”
Ngay khi ánh mắt Trav dừng lại phía sau lưng một cô gái trẻ, tóc bạch kim cùng với một chiếc áo len hồng gần như hờ hững trễ vai, ai cũng biết đó sẽ là Jane.
Câu lạc bộ đầy rẫy những gã đàn ông thèm thuồng, luôn muốn hiện thực hóa khoái cảm của việc nhìn trộm phụ nữ. Khi đó, lòng ghen tuông của Trav trỗi dậy, vì anh biết cô cũng giống như những stripper khác, sẵn sàng cởi đồ và chiều lòng customer của mình.
“They were real happy. And he... he loved her more than he ever felt possible. He couldn't stand being away from her during the day when he went to work... so he'd quit. Just to be at home with her.
Well, he knew he had to work to support her, but he couldn't stand being away from her, either.
He started thinking that she was seeing other men on the sly. He'd come home from work and accuse her of spending the day with somebody else. Then he'd yell at her and start smashing things in the trailer.”
Sự xa cách của Trav khiến anh giống như người lạ với Jane, dù họ đã từng chia sẻ với nhau một quá khứ. Dẫu vậy, quá khứ một lần nữa kết nối họ lại với nhau và khiến Trav muốn chuộc lại lỗi lầm. Tuy nhiên, trong tương lai mà Trav muốn mang lại cho Jane sẽ không có anh trong đó. Vì tình yêu của họ không phải bao giờ cũng đi liền với lẽ phải.
“[..] This time, when he came home late at night, drunk, she wasn't worried about him, or jealous, she was just enraged. She accused him of holding her captive by making her have a baby. She told him that she dreamed about escaping. That was all she dreamed about: escape. She saw herself at night running naked down a highway, running across fields, running down riverbeds, always running. And always, just when she was about to get away, he'd be there. He would stop her somehow. He would just appear and stop her. And when she told him these dreams, he believed them. He knew she had to be stopped or she'd leave him forever.
So he ned a cow bell to her ankle so he could hear her at night if she tried to get out of bed. But she learned how to muffle the bell by stuffing a sock into it, and inching her way out of the bed and into the night. He caught her one night when the sock fell out and he heard her trying to run to the highway. He caught her and dragged her back to the trailer, and tied her to the stove with his belt.”

     Bi kịch của người đàn ông là khi quá yêu người phụ nữ của mình, quá chiếm hữu và kiểm soát đến mức gần như hủy hoại tất cả. Dù không có một phân cảnh nào về quá khứ đau khổ của Travis và Jane nhưng đôi mắt Jane đã kể cho chúng ta tất cả về nỗi đau của cô. Diễn xuất của Jane (Nastassja Kinski) rất đắt giá trong khoảnh khắc này, vừa là sự đấu tranh nội tâm với những sự kiện đã qua vừa là tình yêu gói gọn trong sự tưởng nhớ về tuổi trẻ bồng bột.

     Gia đình và sự dung thứ trong Paris, Texas không cần quá dữ dội để kể về một thì quá khứ nhiều trắc trở, nhưng cũng đủ cho người ta thấy dù qua sóng gió, sẽ không có nơi nào vun đắp tình thương được như gia đình
Và Paris ở Texas, đâu chỉ là một khu đất trống khô cằn giữa sa mạc cơ chứ?

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2020

MEDIANERAS/SIDEWALLS (2011)


     
     Medianeras/Sidewalls (2011) đặc biệt tĩnh lặng và tách biệt với thế giới xô bồ. Nếu như bạn bỏ ra 1h32m để thưởng thức bộ phim này, chắc chắn bạn cũng sẽ có cảm nhận giống tôi. Tôi đã dành nhiều giờ để nghe lời độc thoại của Martin hay Mariana khi những khung hình kiến trúc của thủ đô Argentina lướt qua màn hình.

“Buenos Aires is growing, uncontrollably and imperfectly.

Next to a tall one, a small one

Next to a rational one, an irrational one.

Next to a French one/None with no style at all.

These irregularities, probably reflect us perfectly

Aesthetic and ethical/Irregularities”

Tạm dịch:

“Bueno Aires dần phát triển, thiếu kiểm soát và lộn xộn

Cạnh một tòa cao tầng, sẽ là một tòa thấp bé

Cạnh một tòa đẹp đẽ chỉn chu thì sẽ là một tòa nhếch nhác

Cạnh một tòa kiểu Pháp thì là một tòa không có kiểu dáng cố định

Sự nhộn nhạo này như phản chiếu chính chúng ta

Thẩm mỹ và quy cách, chẳng hề có quy chuẩn”

     Nếu như thành phố Bueno Aires được phản chiếu qua góc nhìn của một web designer (Martin) trong hình hài lộn xộn mang đậm văn hóa của những kẻ ở nhờthì dưới sự quan sát của một nhà thiết kế trang phục mannequin (Mariana), nền văn minh hiện đại đang cố gắng một cách tuyệt vọng để kết nối con người lại với nhau, đó là lý do dù sống ở một nơi đông đúc như Bueno Aires người ta vẫn cảm thấy cô đơn.

     Triết lý làm phim thiên về sự hài hòa trong góc cạnh của đạo diễn Gustavo Taretto vừa vặn với các khung hình ngoại cảnh của Bueno Aires, bên cạnh những cú lia máy sắc lẹm đổi cảnh đầy ấn tượng. Tuy nhiên không chỉ các cảnh quay ngoại cảnh mới đáng giá, để kể câu chuyện về con người trong thành phố lớn, các cảnh có sự xuất hiện của nhân vật chính cần được khéo léo đan xen với ngoại cảnh. Đó là khi cuộc tìm kiếm của hai nhân vật bắt đầu.

     Martin sống một mình trong khu nhà cho thuê tầng bốn, thứ duy nhất kết nối anh với cuộc sống ngoài kia là màn hình máy tính, nơi anh làm việc, giải trí, đọc tin tức, hẹn hò và thậm chí là giải quyết nhu cầu sinh lý . Người bạn duy nhất của anh là Susu, chú cún bị bạn gái cũ bỏ lại sau khi hai người chia tay. Cuộc tình đi qua để lại một Martin thâm trầm và khao khát tìm kiếm nửa kia. Cô giữ chó (dog’s sister) đến với cuộc đời anh qua một cú nhấp chuột, rồi cũng nhanh chóng bước đi. Hẹn hò trong một thế giới cần những tiêu chuẩn ngặt nghèo thật chẳng dễ dàng. Với người bốc đồng, anh không thể chạy theo họ, với người quá hoàn hảo, anh cũng chẳng thể đáp ứng. Tình yêu đối với Martin giống như sự o ép trong ngộ nhận , anh cần tình yêu vì anh cô đơn.

     Mariana ngày ngày chuẩn bị trang phục cho mannequin trước cửa hàng, cũng có khi cô ngồi bần thần nhìn hình ảnh mình phản chiếu qua cửa kính hàng đối diện. Từ bỏ sự gắn kết với thế giới thực sau khi nhận ra người bạn trai bốn năm bên cạnh mình chỉ là một kẻ xa lạ, Mariana chìm trong thế giới của riêng mình, nói chuyện với mannequin, làm bạn với thang bộ vì mắc chứng sợ thang máy (lift phobia), cuộc đời của cô co cụm lại trong căn nhà mà cô gọi là shoesbox.

    Chuyện gặp gỡ một người nào đó chẳng phải là khó khăn, thậm chí qua ứng dụng hẹn hò, ta có thể gặp hàng trăm hàng nghìn tâm hồn cô đơn đang lang thang tìm một mảnh ghép cho mình, loay hoay vì mưu cầu sự bầu bạn . Thế nhưng, để gặp được người thực sự muốn gặp, không chỉ cần một cái gật đầu là xong. Trong Medianeras, những cuộc gặp luôn tuột mất khỏi tay Mariana và Martin. Họ có thể gặp nhau ở ngã tư cột đèn, trước cửa hàng thời trang, khi lướt qua nhau trên phố, hiện trường vụ tai nạn hi hữu hay thậm chí là trước cửa hàng tiện lợi khi mất điện.

    Sau cùng họ vẫn tuột mất nhau. Họ ở rất gần nhau nhưng chẳng bao giờ gặp mặt. Giống như lời tự sự của Mariana khi giải đố Wally in the city, cô chưa bao giờ tìm được Wally ở thành phố.

“If I can't find a person when I know who I'm looking for, how can I find a person when I don't know who I'm looking for?”

Tạm dịch

Nếu như tôi không thể tìm ra người tôi biết thì làm sao tôi có thể tìm được người mà tôi không biết đây?”

     Cốt truyện sở hữu phông nền lãng mạn khi quan niệm về định mệnh hay duyên số được dùng làm điểm nhấn, tuy nó cũng cho chúng ta thấy rằng trên đường đi tìm hạnh phúc thực sự, bạn cần học cách mạnh mẽ để vượt qua sự cô đơn. Đôi khi con người cần nhìn vào khoảng trống để biết được niềm vui của khoảnh khắc đủ đầy.

     Medianeras (Sidewalls) là thuật ngữ để chỉ những mặt cắt của các tòa nhà cao tầng, nơi mà đôi khi trở nên thật vô dụng và bị mặc kệ cho rêu phong bao phủ. Medianeras khiến đô thị phủ lên một lớp ngăn cách lạnh lùng giữa người với người, một nhân chứng sống xây đắp nên sự cô đơn của con người ở đô thị lớn mà đám dây nhợ lòng thòng hay màn hình máy tính khó có thể xóa đi được.

    Âm nhạc của phim buồn mà không bí bách, giống như chờ đợi một cú hích cho cuộc gặp gỡ của hai nhân vật chính. Tôi chắc rằng đạo diễn Gustavo Tarreto đã yêu âm nhạc của ông hoàng Lofi Daniel Johnston đủ nhiều khi đưa True love will find you in the end vào một phân cảnh mang tính kết nối giữa Martin và Mariana. Ngoài ra, một điểm cộng khác trong âm nhạc là giai điệu buồn Étude và Waltz của Chopin vang lên não nùng trong các phân cảnh độc thoại của hai nhân vật chính.



     Đôi chút cá nhân với tôi, Martin và Mariana là phiên bản của tôi, hoàn toàn là tôi lạc lõng ở thành phố lớn với những mối quan hệ nhỏ giọt, đếm từng ngày trôi qua. Medianeras nhắc tôi nhớ về Turn left turn right của họa sĩ Đài Loan Jimmy Liao, tác phẩm với những chiêm nghiệm sâu sắc về tính ngắn ngủi của cuộc gặp gỡ .

     Trước đây tôi từng nghĩ phim hay là phim mang lại cảm giác giải trí, mãn nhãn – một trải nghiệm chung của tất cả mọi người, có thể là một câu chuyện tình bi thương hay một cuộc rượt đuổi nghẹt thở, nhưng khi dần lớn lên tôi nhận ra rằng, cái hay đối với mỗi người không giống nhau. Với tôi, phim hay là khi tôi thấy bản thân m ình trong đó, các cảnh quay như khiến tôi đi qua thì quá khứ của bản thân và tiên đoán một phần tương lai của tôi trong đó. Medianeras là chính tôi trong thành phố lớn này, những đêm trượt dài  trong sự tuyệt vọng về cuộc sống và con người, khi tôi nhìn những cột đèn cao vút quá nhiều dây nhợ và tự hỏi liệu chúng có kết nối mọi người lại với nhau không hay chỉ đánh lừa thị giác chúng ta?

     Hơn hết, Medianeras mang lại một trải nghiệm nhiều hi vọng trong tôi về một thế giới đô thị qua ô cửa kính. Hoàn toàn là những ô cửa kính màu nhiệm.